Cty Lê Anh

Cty Lê Anh

Trong quý I năm nay, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Nga đã có sự tăng trưởng vượt bậc, tăng 2,6 lần so với cùng kỳ năm 2021. Đây là nhóm hàng tăng mạnh nhất trong 23 mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang quốc gia này, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan.

Trong quý I năm nay, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Nga đã có sự tăng trưởng vượt bậc, tăng 2,6 lần so với cùng kỳ năm 2021. Đây là nhóm hàng tăng mạnh nhất trong 23 mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang quốc gia này, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan.

Thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức do ảnh hưởng của cuộc xung đột và các chính sách trừng phạt từ phương Tây đối với Nga. Những biện pháp trừng phạt này đã làm gián đoạn hoạt động xuất khẩu và giao thương giữa Việt Nam và Nga trong quý II năm nay. Do đó, các nhà xuất khẩu Việt Nam sang Nga phải tính toán lại chiến lược kinh doanh của mình. Đặc biệt, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần bám sát các quy định và thông tin mới từ các ngân hàng của Nga, ít nhất là đảm bảo được các khoản thanh toán trong giao thương để tránh tình trạng khó thu được tiền hàng khi Nga bị loại khỏi hệ thống SWIFT.

Việc xuất khẩu gạo và các sản phẩm nông nghiệp tăng trưởng mạnh không chỉ phản ánh sự nỗ lực của các doanh nghiệp mà còn là kết quả của quá trình sản xuất nông nghiệp ổn định và hiệu quả tại Việt Nam. Nông dân ở các vùng trồng lúa, như thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng), đã có những mùa vụ bội thu. Những hình ảnh nông dân thu hoạch lúa vụ Đông Xuân, như ở Sóc Trăng, cho thấy một bức tranh tươi sáng về năng suất và chất lượng lúa gạo của Việt Nam.

Để duy trì và phát triển hơn nữa thị phần xuất khẩu gạo sang Nga, các doanh nghiệp Việt Nam cần tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường quốc tế. Đồng thời, việc mở rộng và tìm kiếm thị trường mới cũng là một hướng đi cần thiết để giảm thiểu rủi ro từ các biến động chính trị và kinh tế quốc tế.

Việc xuất khẩu gạo sang Nga tăng mạnh là một tín hiệu tích cực cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để duy trì đà tăng trưởng này, các doanh nghiệp và nông dân cần tiếp tục nỗ lực cải thiện chất lượng sản phẩm, tận dụng các cơ hội thị trường và đối phó hiệu quả với các thách thức từ môi trường kinh doanh quốc tế.

Chức vụ: Trưởng đơn vị Điện quang can thiệp – Phó trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh

Chuyên ngành: Chẩn đoán hình ảnh và Điện quang can thiệp

- Từ năm 1937- 1944: Bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, trong Mặt trận Dân chủ huyện Phú Vang và Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế

- Năm 1944: Tổ chức và phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh.

- Từ 8/1945-10/1948: Tham gia Quân đội, giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng đến Chính trị viên Tiểu đoàn và Trung đoàn.

- Từ 10/1948-1950: Tham mưu trưởng các Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn.

- Từ 1951-1954: Tham mưu phó, quyền Tham mưu Trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

- Từ 1955-1963: Cục phó Cục Tác chiến; Cục Trưởng Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam.

- Từ 8/1963-02/1964: Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

- Từ 02/1964-1974: Phó Tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam; Tư lệnh Quân khu 9 (năm 1969).

- Từ 1974-1975: Phó Tư lệnh Quân giải phóng Miền Nam, (tháng 4/1974 được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng); Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư Lệnh cánh quân hướng Tây Nam đánh vào Sài Gòn.

- Từ 1976-1980: Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam; được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1981.

- Từ 1981-1986: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Camphuchia; được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa V bầu vào Bộ Chính trị (năm 1982); được thăng quân hàm Đại tướng năm 1984; được giao giữ chức Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam năm 1986.

Từ 02/1987-8/1991: là Ủy viên Bộ Chính Trị BCH TW ĐCS Việt Nam (khóa VI: 1986-1991), Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước CHXHCN Việt Nam; là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị BCH TW ĐCS Việt Nam (khóa VII1991-1997), Thường trực Bộ Chính trị.

- Từ 1992-9/1997: là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị BCH TW ĐCS Việt Nam; là Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam.

- Từ 12/1997-04/2001: là Ủy viên Ban cố vấn BCH TW ĐCS Việt Nam.